Nguyên tắc đánh giá, phân loại người nộp thuế có dấu hiệu rủi ro khi sử dụng hóa đơn
Trong quá trình áp dụng quản lý rủi ro (QLRR) để đánh giá, xác định NNT có dấu hiệu rủi ro và quản lý sử dụng hóa đơn, Tổng cục Thuế xác định nguyên tắc đánh giá, phân loại NNT.

3 lớp phân loại ngưỡng rủi ro
Theo đó, việc phân tích, đánh giá, phân loại người nộp thuế có dấu hiệu rủi ro trong quản lý, sử dụng hóa đơn được thực hiện tự động trên ứng dụng quản lý rủi ro của từng cơ quan thuế quản lý trực tiếp người nộp thuế.
Trường hợp ứng dụng quản lý rủi ro không có thông tin để xác định người nộp thuế có dấu hiệu rủi ro thì việc áp dụng quản lý rủi ro được thực hiện thủ công bằng văn bản đề xuất hoặc văn bản xác nhận có chữ ký của người được ủy quyền thực hiện các biện pháp nghiệp vụ của cơ quan quản lý thuế theo quy định. hành vi pháp lý điều chỉnh.
Việc đánh giá, phân loại người nộp thuế được thực hiện trên cơ sở thông tin về quản lý rủi ro được cập nhật trong ứng dụng quản lý rủi ro tại thời điểm đánh giá và các tiêu chí, chỉ số, tiêu chí phân tích thông tin đánh giá người nộp thuế có dấu hiệu rủi ro. trong công tác quản lý, sử dụng hóa đơn do Tổng cục Thuế phát hành.
Việc xác minh, phân loại NNT sẽ được thực hiện định kỳ vào ngày 25 hàng tháng.
Về việc xây dựng ngưỡng rủi ro, Tổng cục Thuế xác định ngưỡng rủi ro là căn cứ để phân loại rủi ro của người nộp thuế thành 3 mức: rủi ro cao, rủi ro trung bình và rủi ro thấp. Ngưỡng rủi ro phải được phê duyệt trong hệ thống và có hiệu lực kể từ ngày được phê duyệt. Ngưỡng rủi ro được điều chỉnh theo từng thời kỳ và ban hành theo yêu cầu của ban lãnh đạo.
Cục thuế chủ yếu xác định ngưỡng rủi ro cao được phân loại theo 2 phương pháp, cụ thể:
Về phương pháp số tuyệt đối: số lượng NNT có dấu hiệu rủi ro cao được ấn định riêng cho từng cơ quan thuế theo số lượng NNT hoặc tổng điểm rủi ro.
Đối với phương pháp số tương đối: số lượng NNT có dấu hiệu rủi ro cao được xác định bằng tỷ lệ phần trăm so với số NNT đang hoạt động đưa vào phân tích theo phạm vi phân tích.
Tổng cục Thuế cũng cho biết, tỷ lệ (số) người nộp thuế có rủi ro thấp tương ứng với 50% trên tổng số người nộp thuế có điểm rủi ro chung thấp nhất trở lên. Tỷ lệ (số lượng) người nộp thuế có rủi ro trung bình là tỷ lệ (số lượng) người nộp thuế còn lại sau khi trừ đi số lượng người nộp thuế có rủi ro cao và rủi ro thấp.
Trường hợp người nộp thuế thuộc ngưỡng rủi ro cao nhưng có số điểm bằng nhau thì xét chỉ số của tiêu chí phụ theo thứ tự ưu tiên như sau: (1) số thời gian chậm kê khai thuế giá trị gia tăng tính từ cao đến thấp; (2) số lần thay đổi trụ sở chính và địa điểm của doanh nghiệp; (3) Người nộp thuế thay đổi người đại diện theo pháp luật hoặc thay đổi địa điểm kinh doanh dẫn đến thay đổi cơ quan thuế; (4) Trong thời hạn 01 năm trước thời điểm ấn định, cơ quan thuế nhiều lần ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn đối với người nộp thuế; (5) Người nộp thuế có tỷ lệ tổng số thuế giá trị gia tăng phải nộp trên tổng thu nhập từ bán hàng hóa, dịch vụ trong kỳ thấp: (6) Người nộp thuế có tỷ lệ thu nhập từ bán hàng hóa, dịch vụ cố định. kỳ/thu nhập bán hàng và cung cấp dịch vụ kỳ trước lớn.
3 nhóm chỉ tiêu
Một nội dung quan trọng khác của quy trình áp dụng QLRR là đánh giá, phân loại NNT.
Đầu tiên có Nhóm I – Nhóm chỉ số tiêu chí xác định người nộp thuế chuyển từ sử dụng hóa đơn điện tử không có mã của cơ quan thuế sang hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế.
Dựa trên nhóm I, chương trình quản lý rủi ro hỗ trợ lọc NNT có một trong các đặc điểm rủi ro và đưa ra danh sách NNT có đặc điểm rủi ro cao. Trường hợp ứng dụng quản lý rủi ro thiếu thông tin xác định người nộp thuế có rủi ro cao thì công chức thuế phải căn cứ vào hồ sơ khai thuế và các nguồn thông tin cơ quan thuế có để rà soát, kiểm tra xác định người nộp thuế có rủi ro cao.
Bộ phận thanh tra – kiểm tra, thanh tra, kiểm tra thực tế (nếu cần) lập danh sách NNT chuyển sang sử dụng hóa đơn điện tử có xác thực của cơ quan thuế trình thủ trưởng cơ quan thuế phê duyệt. ngày mùng 5 của tháng. Cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm lập danh sách người nộp thuế thuộc thẩm quyền quản lý của đơn vị thuế và người nộp thuế thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan thuế.
Thứ hai Nhóm II là nhóm chỉ tiêu, tiêu chí xác định người nộp thuế có dấu hiệu rủi ro cần kiểm tra việc quản lý, sử dụng hóa đơn.
Trên cơ sở bộ tiêu chí đã được thiết lập theo quy định tại Nhóm II, chương trình QLRR tự động tính toán đánh giá rủi ro của từng người nộp thuế theo từng chỉ số tiêu chí và xác định đánh giá rủi ro chung của các chỉ số tiêu chí. ngày 25 hàng tháng. Dựa trên ngưỡng rủi ro đã được phê duyệt và đánh giá rủi ro tổng thể của người nộp thuế, chương trình quản lý rủi ro phân loại người nộp thuế thành ba loại: rủi ro cao, rủi ro trung bình và rủi ro thấp.
Thứ ba đây là nhóm III – nhóm tiêu chí kiểm soát xác định người nộp thuế có dấu hiệu rủi ro phải kiểm tra việc quản lý, sử dụng hóa đơn.
Tùy theo yêu cầu quản lý trong từng thời kỳ, cơ quan thuế có thể sử dụng bộ tiêu chí tham chiếu để xác định người nộp thuế có dấu hiệu rủi ro và rà soát việc quản lý, sử dụng hóa đơn để tiến hành phân tích rủi ro của người nộp thuế.
Cơ quan thuế có thể sử dụng một hoặc một số chỉ tiêu, tiêu chí thuộc nhóm III để phân tích, đánh giá, xác định người nộp thuế có dấu hiệu rủi ro cao. Đối với nhóm tiêu chí này, cơ quan thuế sẽ nhập thông số cho các tiêu chí, đồng thời chương trình quản lý rủi ro sẽ hỗ trợ phân tích rủi ro và lọc NNT có dấu hiệu rủi ro theo một trong các tiêu chí kể cả nhóm III để đưa vào danh sách NNT phải được xem xét và kiểm tra mà không cần đánh giá rủi ro.